Nội dung sách Thần Nông Bản Thảo:
Trong sách, ghi 365 loại dược vật, chia làm 3 loại là Thượng, Trung và Hạ phẩm. Giới thiệu 365 loại dược vật, chia làm 3 loại là:
– Thượng phẩm, 120 loại.
– Trung phẩm, 120 loại.
– Hạ phẩm, 125 loại.
– Thực vật 252 loại.
– Động vật 67 loại.
– Khoáng vật 46 loại.
Cuốn sách Thần nông bản thảo kinh có bố cục như sau:
Quyển một. Tự lệ
Quyển hai. Thượng phẩm: tổng cộng 120 loại thuốc quý, có thể gọi là thảo dược không độc, chủ yếu nuôi dưỡng cơ thể, tăng cường sức khỏe...
+ Kim thạch 金石部 (18): Đan sa, Vân mẫu…
+ Bộ thảo 草部 (73): Xương bồ, Nhân sâm…
+ Bộ mộc 木部 (20): Phục linh, Câu kỷ tử…
+ Bộ nhân 人部 (1): Phát (tóc) tu (râu)…
+ Bộ thú 兽部 (6): Long cốt, Ngưu hoàng…
+ Bộ quả 果部 (5): Đại táo, Bồ đào…
Quyển ba. Trung phẩm: gồm 120 vị thuốc có thể làm thần dược, dược phẩm không độc hoặc có độc. Chủ về bổ dưỡng, trong đó có vị có thể bổ hư, bồi bổ cơ thể như long nhãn, đương quy, bách hợp...; có vị có thể trừ tà kháng bệnh như hoàng liên, hoàng cầm, ma hoàng, bạch chỉ...
+ Loại kim thạch (14 loại): Hùng hoàng, Thủy ngân…
+ Loại thảo (cây cỏ) (48): Can khương, Cát căn…
+ Loại mộc (17): Trúc diệp, Kỷ tử…
+ Loại mễ cốc 谷部 (3): Lật mễ, Xích tiểu đậu…
Quyển bốn. Hạ phẩm: có tất cả 125 loại tá sứ dược, đa số có độc, không thể dùng lâu dài. Các bệnh chủ trị phần nhiều là hàn nhiệt tích tụ.
+ Loại kim thạch (9): Thạch hôi, Đại giả thạch…
+ Loại thảo (19): Phụ tử, Thiên hùng…
+ Loại mộc (2): Đào hạch nhân, Hạnh hạch nhân…
Đặc tính thuốc theo Thần Nông Bản Thảo
– Vị thuốc được phân theo Ngũ vị: chua, mặn, ngọt, cay, đắng.
– Thuốc có tứ khí: hàn, nhiệt, ôn lương…
– Lập thuốc có quân, thần, tá, sứ…
– Dùng thuốc trị các loại: Nội, ngoại, phụ, nhi, ngũ quan (khoảng hơn 170 loại bệnh).
Nội dung sách có ý nghĩa hoa học và giá trị lịch sử tương đối cao, tuy nhiên vì hoàn cảnh của thời gian đó nên trong sách có lẫn nhiều ý tưởng của Đạo gia như ¿Khinh thân diên niên¿ (Nhẹ người sống lâu), ¿Bất lão thần tiên¿ (Sống mãi như thần tiên).
Hiện nay, trong thư viện cổ còn những bản sách thu thập sớm nhất là bản đời Minh (1368 - 1644) của Lô Phúc và 3 bản sau của Tôn Tinh Diễn (đời Thanh), Cố Quan Quang (đời Thanh) và Sâm Lập Chi (Nhật Bản đều có in lại sau ngày Kiến Quốc).